PHẦN MỞ ĐẦU
Mỗi một tộc người trên thế giới đều mang một sắc thái văn hóa riêng, rất độc đáo. Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc người anh em là 54 bản sắc văn hóa khác nhau, những nét riêng đó hòa vào nhau tạo nên bản sắc của dân tộc Việt Nam. Những sắc thái văn hóa riêng đó chính là trang phục, ngôn ngữ, phong tục tập quán. Trong các sắc thái văn hóa đó, trang phục là dấu hiệu cơ bản và quan trọng để nhận biết tộc người này với tộc người khác khi chúng ta có dịp tiếp xúc. Trang phục chính là một nét đẹp văn hóa của mỗi tộc người, trang phục truyền thống của họ không chỉ có giá trị sử dụng mà còn thể hiện giá trị văn hóa, tín ngưỡng và thẩm mỹ.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, sẽ là thiếu sót nếu không tiếp cận với
văn hóa cổ truyền, lấy văn hóa truyền thống của dân tộc là một trong những
cơ sở quan trọng để xây dựng, bảo tồn, và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và chính quyền, các dân tộc được bình đẳng, tự do, mối quan hệ giữa đồng bào Dao đỏ và các dân tộc anh em được mở rộng. Văn hóa Dao
hòa nhập vào văn hóa Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Đặc biệt trong bối cảnh
nước ta đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo hướng “toàn cầu
hóa” công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự giao lưu hội nhập trong nước và quốc
tế thì các yếu tố kinh tế, văn hóa - xã hội lại có tác động lớn đến văn hóa của
của các dân tộc nói chung và đồng bào Dao đỏ nói riêng. Đó là quy
luật tất yếu của lịch sử, cũng là tiền đề kinh tế- xã hội cho quá trình hình
thành và phát triển các mối quan hệ văn hóa giữa các dân tộc. Toàn cầu hóa
đang là xu thế lớn tác động trực tiếp và sâu rộng đến mọi lĩnh vực đời sống
văn hóa. Đó là quá trình giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh tự nhiên giữa các nền văn hóa. Thông qua các hình thức liên kết kinh tế, chuyển giao
công nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị trường, các nền văn hóa khác
nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa và ảnh hưởng lẫn nhau làm cho
văn hóa thêm phong phú đa dạng. Bên cạnh những yếu tố tích cực thì toàn cầu
hóa còn tồn tại nhiều yếu tố hạn chế như hiện tượng đồng hóa văn hóa, sự tiếp
thu các yếu tố văn hóa không có chọn lọc sẽ dẫn đến nguy cơ mất dần bản sắc
văn hóa truyền thống dân tộc, các yếu tố văn hóa ngoại lai lấn át các yếu tố
văn hóa truyền thống mà hệ lụy của nó là sự chối từ văn hóa truyền thống . Một trong những giá trị văn hóa có nguy cơ bị mai một rõ rệt là văn hóa thêu truyền thống của người Dao đỏ – một loại hình nghệ thuật thủ công đặc sắc, chứa đựng tri thức dân gian, bản sắc tộc người và tâm hồn của cộng đồng Dao đỏ qua nhiều thế hệ. Tuy có giá trị lớn về lịch sử, mỹ thuật và văn hóa, nhưng trong thực tế, văn hóa thêu của người Dao đỏ xã Gia Hội đang đứng trước nhiều thách thức: lớp trẻ ít quan tâm, người biết thêu ngày càng ít, sản phẩm truyền thống khó cạnh tranh với hàng hóa công nghiệp, dẫn đến nguy cơ mai một, lãng quên. Tại địa phương, nhiều hoa văn, họa tiết cổ đang dần biến mất bởi không có người kế tục hoặc không được số hóa, lưu giữ một cách khoa học. Là học sinh – những chủ nhân tương lai của quê hương, nhóm câu lạc bộ chúng em đã nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Mong muốn giới thiệu nét đẹp văn hóa của dân tộc mình đến với độc giả.
GIỚI THIỆU VỀ Ý NGHĨA CÁC ĐƯỜNG NÉT HOA VĂN THÊU TRÊN TRANG PHỤC NGƯỜI DAO ĐỎ
Có thể nói, bộ trang phục truyền thống cũng giống như một cuốn sách lịch sử, văn hóa vậy, lịch sử được ghi lại bằng bàn tay và tâm hồn người phụ nữ Dao, những người không biết chữ, không có vị trí quan trọng trong dòng tộc, nhưng lại chắt lọc được những gì quan trọng nhất trong thế giới tâm hồn của con người và dân tộc mình.
Người Dao cư trú ở nhiều vùng khác nhau tạo cho mình những nét riêng biệt, phải chăng để phù hợp với môi trường mình đang sinh sống? hay để đánh dấu một cá tính cá nhân? Nguyên do của sự thay đổi đó hé mở cho ta thấy được một sự giao thoa, tiếp biến của những nền văn hóa khác nhau, sự gặp gỡ đó đã phần nào tác động đến quan niệm của từng cá nhân. Môi trường sống khác nhau buộc con người phải cải tiến phù hợp, rồi dần dần quan niệm về cái đẹp của họ cũng biến đổi. Tuy vậy, việc thể hiện hoa văn trên trang phục, từ màu sắc đến vị trí của từng hoa văn, từ số lượng đến chất lượng hoa văn cũng giúp người ta dễ nhận biết được người đó cư trú ở đâu, bản thân người đó có tỉ mỉ, chăm chỉ hay không? sự đa dạng trong hoa văn cũng cho ta thấy được dân tộc Dao vừa giữ gìn, tạo dựng, phát huy cái đẹp, cái cổ truyền mà vẫn chứa đựng sự sáng tạo riêng của vùng miền, của cá nhân.
Mỗi dân tộc có cách tạo hình trang trí và sử dụng trang phục theo những đặc điểm văn hóa riêng của mình. Đó là sự thể hiện một trình độ tay nghề khéo léo, một đời sống tâm hồn phong phú, giàu chất mỹ cảm nguyên sơ, một năng lực biểu tượng hóa các huyền thoại của dân tộc, biểu tượng hóa dòng lịch sử của dân tộc mà vẫn không tách biệt khỏi cuộc sống đời thường.
Người Dao ở Tỉnh Lào Cai mới (trước đây là tỉnh Yên Bái) được chia thành 4 nhóm chính là: Dao đỏ, Dao quần chẹt, Dao quần trắng và Dao làn tuyển.Trong đó người dao sinh sống ở xã Nậm Lành – Huyện Văn Chấn – Tỉnh Yên Bái cũ (nay là xã Gia Hội – Tỉnh Lào Cai) là người Dao đỏ . Cách phân biệt các nhóm này chính là sự khác biệt trên trang phục truyền thống của họ. Trang phục truyền thống của người Dao đỏ rất đa dạng từ quần, áo, váy, yếm, khăn, mũ... với nhiều hoa văn cầu kỳ, sáng tạo mang đậm sắc thái của thiên nhiên.
Trang phục của đàn ông người Dao đỏ được may bằng vải bông tự dệt màu nhuộm chàm đen sợi vải chắc, mát, thấm hút tốt và phù hợp với khí hậu miền núi thể hiện sự giản dị và tinh tế. Màu chàm tượng trưng cho sự hòa hợp với núi rừng và cuộc sống lao động.. Trang phục nam ít thêu hơn nữ, nhưng vẫn có những điểm nhấn, các dải hoa văn hình học chạy dọc theo viền cổ, nẹp áo hoặc cổ tay thêu chỉ đỏ để tạo đường viền nổi bật, các họa tiết thường là: hình thoi, hình móc câu, hình trám, hình thoi, tam giác, các đường kẻ song song, biểu tượng hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Các đường thêu dù đơn giản nhưng mang thông điệp về sự gắn kết cộng đồng, tinh thần mạnh mẽ và trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình. Trang phục thể hiện quan niệm thẩm mỹ của người Dao: giản dị nhưng tinh tế, mạnh mẽ mà vẫn hài hòa.
Trang phục áo nữ: áo dài màu chàm đen, dáng suông, mở ngực, áo được thiết kế dài đến đầu gối, cổ áo hình chữ V, đường nẹp áo có nhiều hoa văn hình học sắc nét dùng chỉ đỏ, trắng, xanh chàm, vàng với các mô típ đặc trưng của kỹ thuật thêu chữ thập tạo thành các ô vuông nhỏ ghép thành “ hoa tám cánh” biểu tượng cho sự sinh sôi, may mắn, hoa tám cánh thể hiện mong ước mùa màng tươi tốt, con cháu đông đúc, họa tiết lặp lại còn thể hiện trật tự hài hòa, phù hợp quan niệm âm dương của người Dao, hai đường chỉ trắng chạy thẳng phân chia mảng hoa văn thể hiện ranh giới bảo vệ , giống như “ đường tránh tà” ngụ ý giữ bình an cho người mặc, trong trang phục của người Dao đỏ những đường kẻ này còn giúp làm nổi bật bố cục, mang ý nghĩa cân bằng âm dương, họa tiết hình chữ X và hình sao mầu vàng – đỏ đây là mô típ “ Hình chéo kép” hoặc “ hình sao ghép từ bốn chữ X” là hoa văn cổ của người Dao, hình chữ X tượng trưng cho người , cho mối liên kết giữa con người và trời đất, mầu vàng - đỏ mầu của lửa, sức sống, cầu ấm no- xua đuổi điều dữ, đây là họa tiết thường xuất hiện ở nẹp cổ và tay áo của nữ Dao đỏ.
Các hoa văn trên tấm thêu lưng áo của người Dao đỏ mà cả nam và nữ đều có là một mảng trang trí mang tính biểu tượng mạnh mẽ, thể hiện sự mong cầu may mắn và kết nối với tổ tiên với ba mầu chủ đạo là đỏ - vàng – trắng tượng trưng cho lửa – mặt trời – vũ trụ theo tư duy hình học của người Dao đỏ. Nhìn trên tấm thêu nổi bật là họa tiết hình học xen kẽ (hàng giữa) đây là họa tiết nổi bật nhất, gồm các khối hình thoi liên kết thành chuỗi, các hình thoi lồng vào nhau tượng trưng cho sự cân bằng âm – dương, sự hài hòa trong cuộc sống. Mỗi hình thoi được chia ô đỏ, vàng, trắng, đen thể hiện ý: đỏ tượng trưng cho lửa, sức mạnh, sự sống, mầu vàng tượng trưng cho mùa màng thịnh vượng, mầu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, thuần khiết, mầu đen là đất mẹ trong truyền thuyết con người được sinh ra từ đất. Mảng thêu được đặt ở phần lưng được xem như “ Trục năng lượng” giữa phần lưng – vị trí dễ bị “ gió độc” theo quan niệm dân gian, có ý nghĩa luôn được bảo vệ. Họa tiết sóng, mây uốn lượn mầu chỉ trắng xuất hiện xen giữa các dải hoa văn mang ý nghĩa mây - nước biểu trưng của sự mềm mại, nữ tính, mang ý niệm dòng chảy cuộc sống, sự tuần hòa và bền vững, là lời chúc cho người con gái luôn có cuộc sống êm đềm, hòa thuận. Họa tiết chữ X, hoa sao tám cánh mầu trắng trên nền đỏ - cam tượng trưng cho ánh sáng và sinh khí, xua đuổi cái xấu, “ sao tám cánh ” là mô típ phổ biến tượng trưng cho bốn phương – tám hướng, biểu thị sự kết nối giữa con người và vũ trụ. Khung viền trắng bao quanh toàn bộ tấm thêu được làm dạng móc nối, mắt lưới là “ đường biên bảo hộ” giữ gìn năng lượng tốt bên trong tấm thêu, mắt lưới còn thể hiện sự kết nối cộng đồng, đoàn kết của người Dao đỏ, cũng tượng trưng cho sự khéo léo và tài thêu của phụ nữ Dao đỏ, sự phối hợp mầu tổng thể đỏ - trắng – vàng – đen không chỉ để đẹp mà còn mang tính tâm linh và biểu tượng thể hiện vòng đời đất – nước – lửa – ánh sáng.
Ngoài những mô típ hoa văn phổ biến quen thuộc như họa tiết sóng, mây uốn lượn, hay họa tiết “ sao tám cánh ” mầu trắng trên nền đỏ - cam thì tấm thêu trên vạt áo sao của người phụ nữ Dao đỏ xuất hiện hàng hoa văn hình “ Cây vũ trụ” thể hiện sự kết nối ba cõi trời - đất - con người với mong ước sự sinh sôi, trường tồn của dòng tộc, sự che chở của tổ tiên dành cho phụ nữ trong cuộc sống lao động và gia đình. Dải hoa văn tiếp theo gồm các hình như người đứng dang hai tay được tạo bằng các đường chéo cân sứng là họa tiết tượng trưng cho người Dao sống hòa hợp với tự nhiên , thể hiện niềm vui, sự ấm no, phía dưới đường cong hình chữ V mầu cam là hình ảnh núi đồi và mặt trời biểu tượng của cuộc sống nương rãy, khát vọng sinh hoạt ấm no, mùa màng tốt lành. Dải hoa văn hình quả trám nối tiếp mầu đỏ - cam - trắng bao gồm những hình thoi ( quả trám) lồng vào nhau lặp lại liên tục thể hiện nhịp điệu của cuộc sống, sự lao động bền bỉ, cầu chúc bình an, tránh tà, phát triển mạnh mẽ của gia đình và dòng họ.
Hoa văn thêu trên ống quần của người phụ nữ Dao đỏ là sự kết hợp giữa các mảng đỏ - đen - trắng với những mô típ hình học đặc trưng trên phần mảng đỏ và mảng trắng đều xuất hiện các hình quả trám ( hình thoi) lồng vào nhau tượng trưng cho đất - nước - hạt giống, khi quả trám lặp lại thành dải dài nó biểu thị sự trường tồn của dòng họ, mong ước gia đình đông vui, mùa màng tươi tốt. Hình góc vuống xoáy bên trong quả trám đây là họa tiết được xem là bùa hộ mệnh có tác dụng bảo vệ người phụ nữ khỏi tà ma, bệnh tật.
Đường diềm mầu trắng hình tam giác biểu tượng núi cao trùng điệp, sự kết hợp hài hòa giữa các họa tiết gựi lên sự cân bằng giữa thiên nhiên khắc nghiệt và sự mềm mại của người phụ nữ. Nhìn lại bức tranh tổng thể cả mảng thêu dưới ống quần của người phụ nữ Dao đỏ cho thấy các hoa văn thêu không chỉ để trang trí mà còn thể hiện quan niệm vũ trụ, sự sống, tôn vinh vẻ đẹp nữ tính và khéo léo, những đường nét tỉ mỉ mang theo câu chuyện văn hóa sâu sắc, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ Ý NGHĨA CÁC ĐƯỜNG NÉT HOA VĂN THÊU TRÊN TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ XÃ GIA HỘI
Hoa văn thêu trên trang phục của người Dao đỏ mang tính biểu tượng, tín ngưỡng, thẩm mỹ cao thể hiện sự mong cầu hài hòa âm dương thể hiện qua các hình học lặp lại dạng hình thoi, hình xoắn đối xứng, hình tam giác, hình sóng, mây uốn lượn, hình quả trám hay họa tiết “ sao tám cánh ”, hình “ Cây vũ trụ” … mô phỏng mặt trời, mây, núi, nhiều mô típ như hình người, hình chim, hoa, lá, đường diềm cách điệu xuất phát từ những truyền thuyết và nghi lễ của người Dao. Các đường nét hoa văn tinh sảo kết hợp với mầu sắc chỉ thêu nổi bật như mầu đỏ ( sức mạnh, may mắn), mầu trắng ( trong sáng, tinh khiết), mầu đen ( gắn với đất, sự bền bỉ). Hoa văn trên trang phục của người Dao đỏ là sự kết tinh của thế giới quan, tín ngưỡng, lao động và thẩm mỹ, thể hiện bản sắc văn hóa đậm đà, vừa đẹp vừa giầu ý nghĩa tâm linh xã hội.
Nhóm tác giả câu lạc bộ thêu trường THCS Nậm Lành xã Gia Hội
Hoàng Thị Ghến – Phùng Thị Kim Anh