Mô hình hát - nói trong nghệ thuật Hát Bội Việt Nam
Connected Heritage – A Cultural Heritage project aimed at
Equal development
Mô hình hát – nói trong nghệ thuật Hát Bội Việt Nam
Table of contents
Heritage address

INTRODUCE

Hát bội (còn gọi là “tuồng” hay “hát bộ”) là một trong các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, có bề dày lịch sử phát triển lâu đời. Loại hình hát bội được ước đoán ra đời từ khoảng thế kỷ 16, định hình trong thế kỷ 17-18, và phát triển hưng thịnh vào thế kỷ 19. Như vậy, loại hình hát bội đã sinh phùng và đạt đến độ viên mãn về trình độ nghệ thuật trong khuôn khổ thời trung đại. Vì lẽ đó, sân khấu hát bội tích hợp trong nó hệ quy tắc thẩm mỹ thuộc quỹ đạo tư duy “cổ điển” thời trung đại. Cốt lõi của hệ quy tắc đó là phẩm chất ước lệ với những phương thức biểu đạt như tượng trưng, cách điệu, khoa sức,… đặc thù thể hiện qua những kỹ thuật biểu hiện như vẽ mặt, trang phục, vũ đạo. 

Bên cạnh đó, kỹ thuật hát – nói của hát bội cũng mang trong mình những nét đặc thù mà chỉ riêng bộ môn này mới có. Hát – nói hát bội không chỉ đẹp về ca từ (thường là văn thơ theo quy tắc tạo lập ngôn ngữ thời trung đại với các “khuôn vàng thước ngọc” về niêm luật) mà còn đẹp vì hệ thống bài bản với các cung bậc cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố,… đã khiến bao thế hệ khán giả trầm trồ, thổn thức khi đến với hát bội. 

Collection “Mô hình hát – nói trong nghệ thuật hát bội Việt Nam” do Hiếu Văn Ngư – Cultura Fish thực hiện nhằm giới thiệu đến khán giả những bài bản cơ bản, thường nghe của hát bội như nói lối, bạch, xướng, hát khách, hát nam,… Với bộ sưu tập này, Hiếu Văn Ngư hy vọng quý khán giả sẽ tự tin hơn khi đi “coi hát” cũng như sử dụng các chất liệu hát – nói của hát bội trong các dự án sáng tạo.

NÓI LỐI

Kiểu nói có tiết tấu, thường dựa trên cơ sở văn biền ngẫu. Nói lối có nhiều vai trò khác nhau trong biểu diễn hát bội, như tự sự, trữ tình, đối thoại, đàm thoại. Tuỳ theo âm nhạc, lối biểu cảm hay hành động mà nói lối sẽ có những tên gọi cụ thể. 

BẠCH

Cơ sở của bạch thường là một bài thất ngôn tứ tuyệt, có khi hai câu sau là phú. “Bạch” thường dùng để giới thiệu, bày tỏ khí chất một nhân vật, nhất là khi nhân vật ấy vừa xuất hiện trong phần trình diễn.

XƯỚNG

Cơ sở của “xướng” thường là một bài tứ tuyệt hay bát cú; xướng thường có chức năng gần giống “bạch” nhưng thường được dùng cho các nhân vật thần tiên, người có phong thái đĩnh đạc, nhàn lạc.

NGÂM

Ngân tiếng dài ra, có giọng cao thấp nhặt khoan cũng như tiếng ca, cũng gọi là xướng thi, ngâm vịnh. (Theo NSND Đinh Bằng Phi, “Nhìn về sân khấu hát bội Nam Bộ”, NXB Văn nghệ, 2005)

THÁN & OÁN 

Cơ sở của “thán” hoặc “oán” thường dựa trên bài tứ tuyệt hoặc thất ngôn. “Thán” và “oán” thường được dùng trong những trường hợp đau lòng như than thở, biệt ly.

HÁT KHÁCH 

Ca từ của các bài hát khách thường được viết bằng thể thơ sáu chữ, bảy chữ hoặc thể phú. Hát khách thuộc dòng bắc xướng, có giai điệu mạnh, vui, có thể chuyển hóa sang buồn nhưng vẫn khỏe, không có tính sầu não ai oán. Hát khách thường dùng trong tình huống ra đi chiến đấu, chiến thắng trở về, hoặc những lúc bạn bè gặp nhau, tâm sự lúc bàn rượu, v.v.. Có các loại: Khách ngoạn cảnh, khách trình bày, khách hành binh, khách đối đáp, khách thúc, khách bủa, khách thán/ khách tử, khách chúc,…

HÁT NAM: 

Ca từ của các bài hát nam thường được viết bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát với giai điệu tươi vui, nhẹ nhàng, có khi chuyển sang buồn thảm, bi ai. Hệ thống các bài nam cũng đa dạng, có khi tuỳ theo âm nhạc (nam xuân, nam bình, nam ai), theo biểu cảm (nam thương, nam luỵ, nam hận), hoặc khi tu sức cho hành động (nam chạy, nam biệt). 

Nghe hát nam trong các audio “Nói lối ai qua nam ai”, “Nói lối sảng qua nam tẩu”.

————————————————————-

Collection “Mô hình hát – nói trong nghệ thuật hát bội Việt Nam” do Hiếu Văn Ngư thực hiện nghiên cứu, biên tập và tuyển chọn nội dung. Nhóm dự án gồm có: 

  • Ý tưởng & nội dung: Lục Phạm Quỳnh Nhi
  • Cố vấn nội dung, tuyển tập bài bản: Nhà nghiên cứu Vương Hoài Lâm.
  • Quản lý dự án, thu âm và hậu kỳ: Hà Thúc Đức Tùng. 

Với sự đồng hành của: 

  • Nghệ sĩ nhân dân Xuân Quan (Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội TPHCM)
  • Nghệ sĩ nhân dân Thanh Trang (Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội TPHCM)
  • Cùng các nhạc công từ Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội TPHCM: Ngô Văn Tòng, Lê Kim Phong, Phan Ngọc Hiếu, Lê Minh Tân, Nguyễn Trần Thanh Tuấn, Nguyễn Văn Đô.

AUDIO

Nói lối giả (Trích kịch bản “Trảm Trịnh Ân”) | NSND Xuân Quan

Nói lối giả gần giống với lời thoại kịch nói, nhưng người diễn viên thực hiện các phát ngôn có tiết tấu, trầm bổng, lực khi nói mạnh hơn lời thoại kịch nói (thể hiện đặc trưng khoa sức của nghệ thật hát bội). Đoạn nói lối giả này trích từ kịch bản “Trảm Trịnh Ân”, do NSND Xuân Quan trình bày.

Lời:
Ấn con!
Oan ức lòng cha cha biết
Chánh minh dạ chúa chúa hay
Như hoàng bá con cùng với cha đây là
Ngoài tuy nghĩa chúa tôi
Trong thiệt tình huynh đệ
Nay hoàng bá con chẳng nghĩ đến cha, mà đem cha ra chém đi nữa
Thì con, bổn phận làm con
Tử  hà vị túc tích tai
Con làm trai thờ chúa trọn ngay
Mựa chớ đem lòng thù oán mà không nên a Ấn con!

Nói lối xuân (từ 3 chữ đến 9 chữ) | NSND Thanh Trang

Nói lối trên nền nhạc đệm “hơi xuân” (Giai điệu dương tính: Sinh động, vui tươi, rộn ràng,...). Đoạn nói lối xuân này trích từ kịch bản “Phụng Nghi đình”, do NSND Thanh Trang trình bày. Đoạn nói lối xuân này đặc biệt có sự tăng dần về số lượng chữ của từng cặp câu (từ 3 đến 9 chữ) thể hiện tính biền ngẫu sâu sắc.
Lời:
Tâm nan tố
Ý vị hài
Thiếp nay tiện nữ
Chữ đặt Điêu Thuyền
Đờn đã in cầm sắt
Phận thêm đẹp xướng tùy
Đã đẹp lòng quân tử
Xin cất chén giao hoan
Từ lúc xe loan lỡ bước
Nào hay họ Lữ ép duyên
Trăng ngỡ ngàng với mặt thuyền quyên
Gió lơ lửng ngại lòng quân tử
Bốn phương trời dầu dãi bước phiêu linh
Ba chung rượu khỏa khuây mùi tục lụy
Mọc cánh thời như hồng hộc lượn mây xanh
Trương vi ấy tựa kình ngư qua biển bạc

Nói lối ai qua nam ai | NSND Thanh Trang

Nói lối trên nền nhạc đệm “hơi ai” (Giai điệu âm tính: Sầu não, bi thiết, da diết,...). Bài “Nói lối ai qua Nam ai” này được trích từ kịch bản “Tiết Giao đoạt ngọc”, do NSND Thanh Trang trình bày. Đoạn “nói lối ai qua Nam ai” thực chất gồm hai phần, phần “nói lối ai” (thuộc nhóm mô hình nói) và phần hát “Nam ai” (thuộc mô hình hát).
Lời:
Nói lối ai:
Chao ôi!
Tinh thần rũ liệt rũ liệt
Phách quế đê mê đê mê
Thổi gió hương man mác chốn u khê
Bóng trăng lạnh mơ màng nơi bạch lãnh
Gió liễu phất phơ vườn hạnh
Mưa mai lác đác cành dương
Đã phủi rồi son phấn một trường
u trở lại nước non ngàn dặm.

Nam ai:
Ngàn dặm thẹn cùng non nước
Gẫm mơ màng thân trước thân sau
Dặm hòe một bước một đau
Nhìn xem cảnh cũ ra màu dở dang
Tới, ôm lòng hổ với phu lang
Ái ân lỗi đạo cùng chàng trăm năm

Nói lối bóp | NSND Xuân Quan

Là hình thức nói lối tu sức cho tình huống biểu diễn. Nói lối bóp thường được sử dụng khi báo tin khẩn, gấp gáp. Đoạn nói lối bóp này do NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Có! Có!
Trên màn vừa xuống lệnh
Dưới trướng phải ra binh
Thệ nỗ lực bình sinh
Ra tay trừ giặc dữ.

Nói lối chiến | NSND Xuân Quan

Là hình thức nói lối tu sức cho tình huống biểu diễn. Trước khi giao chiến, các phe thường sẽ nói lối chiến để thể hiện khí phách. Đoạn nói lối chiến này do NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Chiến trường khán quá
Nữ tặc tranh lai
Thệ chẳng đổ mồ hôi
Lấy đầu treo mũi bạc

Nói lối sảng qua nam tẩu | NSND Thanh Trang

Là hình thức nói lối tu sức cho tình huống biểu diễn. Nói lối sảng thường được sử dụng để diễn tả những sự kiện bất ngờ đến mức thất kinh hồn vía, ở đây là khi thế nữ (người hầu) nhận hung tin chồng và con của Đào Tam Xuân người thì vong mạng, người mất tích. Đoạn “nói lối sảng qua Nam tẩu” này lấy từ tích truyện “Trảm Trịnh n”, do NSND Thanh Trang trình bày.
Lời:
Nói lối sảng:
Bớ Nhữ Nam vương! Bớ!
Bớ Nhữ Nam vương! Bớ!
Trời ơi!
Phách sảng chơn phách sảng
Kinh mang thị kinh mang
Mau mau ra chốn ải quan
Chóng chóng báo tin Võ trạng

Nam tẩu:
Báo hung tin xót tình nữ chủ
Bà ơi! Con thương cho bà, thương cho bà ủ rủ trướng môn

Nói lối hồn | NSND Xuân Quan

Là hình thức nói lối tu sức cho tình huống biểu diễn. Nói lối hồn hay nói lối tử thường dùng vào tình huống nhân vật kiệt sức sắp mất, hoặc là lời của hồn ma. Đoạn nói lối hồn này trích từ kịch bản “San Hậu”, do NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Trời ơi!
Ngưỡng thiên nhi đoạn thán, đoạn thán
Phủ địa dĩ trường ta, trường ta
Ngựa Khương Di dấu để ngoại thành
Cốt Phàn thị sớm chôn San Hậu
Cốt Phàn thị sớm chôn San Hậu

Bạch qua lối xóc | NSND Thanh Trang

Bài “Bạch qua nói lối xóc” này lấy từ tích truyện “La Thông tảo bắc”, do NSND Thanh Trang trình bày. Thực chất bài này gồm hai phần: Bài bạch (4 câu đầu), phần nói lối xóc (phần còn lại). Nói lối xóc là hình thức nói lối xuân, trên nền nhạc đệm “hơi xuân” nhưng được gia tăng nhịp điệu nhanh hơn để phù hợp với khí chất hùng dũng của nhân vật võ tướng.
Lời:
Bạch:
Liên ba bộ bộ quá môn đình
Nguyệt lý Hằng Nga dạng dạng thinh
Ngọc các nhàn khai thơ sở nguyện
Hội đàm nữ đước hội đàm binh.

Nối lối xóc:
Trấn Huỳnh Luông bảo thủ trường thành
Thiếp mỹ hiệu Đồ Lư công chúa
Võ sức biết xuyên dương quá hạt
Văn thông hay quật địa kinh thiên.
Thị dưỡng nhi Lang chúa điện tiền
Chơn đích tử Đồ Phuông thừa tướng.

Xướng tiên | NSND Xuân Quan

Cơ sở của “xướng” thường là một bài tứ tuyệt hay bát cú; xướng thường có chức năng gần giống “bạch” nhưng thường được dùng cho các nhân vật thần tiên, người có phong thái đĩnh đạc, nhàn lạc. Bài này do NSND Xuân Quan trình bày
Lời:
Hảo u tịnh hồ!
Nguyệt trung sương lý hữu thiền quyên
Mộ vũ triêu vân kỷ bách niên
Chưởng thượng linh hoàn thư huyền diệu
Nhân gian thùy thị hữu tiền duyên

Nói lối xuân qua ngâm xuân | NSND Thanh Trang

"Ngâm" là ngân tiếng dài ra, có giọng cao thấp nhặt khoan cũng như tiếng ca, cũng gọi là xướng thi, ngâm vịnh. (Theo NSND Đinh Bằng Phi, “Nhìn về sân khấu hát bội Nam Bộ”, NXB Văn nghệ, 2005). Bài “Lối xuân qua ngâm xuân” do NSND Thanh Trang trình bày
Lời:
Nói lối xuân:
Đã đẹp lòng quân tử
Xin cất chén giao bôi
Toại thay, ngư thủy nhất trường
Phỉ bấy phụng loan thiên tải hồ.

Ngâm xuân:
Đơn nam, Tống bắc nhất chung tình
Thâm siển bôi trung tửu bán khuynh
Tạo hóa hữu duyên đề túc trái
Cố giao ngưu nữ toại sơn minh

Lối ai qua thán | NSND Xuân Quan

Cơ sở của “thán” hoặc “oán” thường dựa trên bài tứ tuyệt hoặc thất ngôn. “Thán” và “oán” thường được dùng trong những trường hợp đau lòng như than thở, biệt ly. Bài “Lối ai qua thán” này do NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Nói lối ai:
Thưa nhân huynh!
Xin cạn ly mà nén dòng sầu
Đồng cất chén tạm quên nỗi thảm hồ

Thán:
Mây buồn giăng phủ khắp tây đông
Đưa mắt nhìn nhau lệ thắm hồng
Dương liễu đầu cầu buông rũ lá
Như tuôn dòng thảm ngẩn ngơ trông.

Oán ngũ canh | NSND Xuân Quan

Cơ sở của “thán” hoặc “oán” thường dựa trên bài tứ tuyệt hoặc thất ngôn. “Thán” và “oán” thường được dùng trong những trường hợp đau lòng như than thở, biệt ly. Bài “Oán ngũ canh” do NSND Xuân Quan trình bày
Lời:
Tiên vương hà!
Nhất canh sầu khuyển quyển
Nhị canh thốn tâm can
Tam canh sạ thính đề quyên khốc,
Tứ canh na tịch chẩm bất an
Ngũ canh tài văn kê khuyển tán
Bình minh nhật xuất lụy sàng sàng

Khách thi (1) | NSND Xuân Quan

NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Huờn ca khải tấu mã khinh
Tắc khuynh hà hải đoạn côn kình

Khách thi (2) | NSND Xuân Quan

NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Mã đáo tây môn chinh thảo tặc,
Thân ly Song Tỏa mịt lang quân.

Khách thi (3) | NSND Xuân Quan

NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Cung thỉnh tướng quân đồng bả trản
Dữ Ngô hiệp lực phá Tào Man.

Khách thi (4) | NSND Xuân Quan

NSND Xuân Quan trình bày.
Lời:
Thất nhật lương duyên do thiên lý
Lưỡng tính hòa hài hiệp nghi gia.

Khách phú (1) | NSND Thanh Trang

Bài khách phú này trích từ kịch bản “Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ” (nhân vật Thần Nữ) do NSND Thanh Trang trình bày
Lời:
Công chúa Thủy cung danh Thần Nữ viên môn thân đáo
Ngũ Linh hiến nạp ngộ Tiết lang châu trần phối hợp phụng loan.

Khách phú (2) | NSND Thanh Trang

Bài khách phú này trích từ kịch bản “Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ” (nhân vật Phàn Lê Huê) do NSND Thanh Trang trình bày do NSND Thanh Trang trình bày.
Lời:
Nể thị cường san cư vương thổ sao mà bất tuân vương mạng,
Xâm lăng biên cảnh, thọ thiên sanh sao nàng bất thọ thiên oai

Loading more

VĂN BẢN

Không tìm thấy dữ liệu
Was this article helpful?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

MAYBE YOU ARE INTERESTED
bia-bia
Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo ở Hà Giang
AudioImageDocument
8d6e473f3334966acf25-coepy
Hoạ tiết trên Phục trang đặc trưng của Nghệ thuật Hát Bội - Giáp Nam và Giáp Nữ
Hinh-anh-di-san.resize
Kỹ thuật đan mây tre của người Mnông tại xã Yang Yang Tao, Huyện Lắk, Tỉnh Đắk Lắk
Nại Văn Vương. Thôn Tân Đức, Phước Hữu, Ninh Phước, Ninh Thuận. 16
Dân ca Chăm tại Ninh Thuận
le-cung-bo23-1
Lễ cúng bò của người Hmong trắng
resize-21
Chạm bạc của người Dao Tiền (Ngân Sơn, Bắc Kạn)
IMG_4844
Dân ca của người Ba na ở KBang
Spot-4
Giấy dó ở làng Đống Cao, Bắc Ninh
Chia sẻ di sản
Share your project
Be a part of the project, participate in your local heritage contribution!
Log in

Log in