Chị Ngô Thu Huyền (sinh năm 1991) là một người làm giấy Dó ở làng Đống Cao, Bắc Ninh. Giấy Dó – một món đồ tinh tế, gắn với ký ức của nhiều người Việt Nam và gửi gắm tấm lòng của những người làm ra nó. Để làm được giấy Dó, đó không chỉ là công sức của một người thợ xeo Dó (người tráng giấy), mà là thành quả của một quá trình “làm việc nhóm”. Mỗi công đoạn khác nhau lại có sự tham gia hỗ trợ của một người trong gia đình, và những người khác trong làng được thuê để phụ cho những công việc chuyên biệt đòi hỏi nhiều kinh nghiệm.
Sau khi tốt nghiệp đại học, chị Ngô Thu Huyền ở lại thành phố và bắt đầu cuộc sống công sở. Nhưng rồi công việc 8 tiếng quay vòng không cho chị niềm vui. Chị rất nhớ xưởng giấy của ông nội (Giấy Dó Ngô Đức) trong làng, nhớ sân phơi ngày nắng thoang thoảng hương thơm. Khi chứng kiến cả làng Đống Cao chuyển sang sản xuất giấy công nghiệp theo xu thế thị trường, chị Huyền quyết định bỏ thành phố trở về quê học làm giấy Dó vì không muốn nhìn thấy sự biến mất của cái nghề mà ông bà đã dành tâm huyết suốt cả cuộc đời.
Chia sẻ của chị Huyền trên tạp chí Đẹp, bài viết “ Giấy Dó Ngô Đức – Đời người trên vuông giấy Dó”:
“Tôi lớn lên với nghề làm giấy. Ông bà nội tôi đều là những người làm giấy Dó và đã cho tôi tiếp xúc rất sớm với công việc này. Mỗi buổi trưa đi học về, tôi thường ngồi ở góc sân, nghịch ngợm mấy thứ đồ làm giấy mà ông chuẩn bị riêng cho tôi: một cái khuôn con con vừa bàn tay nhỏ, một chậu nước, ít bột giấy, chỉ thế thôi mà tôi ngồi chơi được hết cả buổi chiều. Sau này lớn hơn chút thì tôi phụ giúp ông bà phơi, tước, xếp giấy… Từ những việc như thế mà tôi dần có tình cảm và sự kết nối với giấy Dó một cách tự nhiên.
Năm 2015, trong một lần dọn lại tủ cho ông, thấy rất nhiều mẫu giấy cổ được lưu lại, tôi bỗng lo lắng, bố mẹ mình đã không làm giấy Dó, làng cũng không còn mấy nhà làm nữa, vậy ông tôi có thể sẽ là người cuối cùng làm những mẫu giấy này. Tôi muốn về làng để tiếp tục công việc ấy. Ban đầu, ông bà, bố mẹ đều phản đối vì họ hiểu rất rõ sự vất vả của nghề này, giấy Dó giờ đây không được sử dụng rộng rãi nên còn khó mang lại thu nhập ổn định. Tôi cũng băn khoăn nhiều, nhưng nỗi lo giấy Dó biến mất cứ trở đi trở lại khiến tôi kiên quyết trở về vào năm 2017.”
“Ngô là tên dòng họ, còn Đức là tên đệm trong chi nhỏ nhà tôi. Ông bà đi trước đã tạo dựng nên nền tảng về nghề thủ công, gồm kiến thức và kinh nghiệm từ quá trình làm việc. Thế hệ trẻ như tôi may mắn được kế thừa nền tảng ấy và có cơ hội tiếp giữ, phát triển nó. Vậy nên tôi chọn cái tên Ngô Đức, có thế hệ đi trước, có bản thân mình và mong đợi sự tiếp nối lâu dài về sau.”
“Ông nội dạy tôi những kiến thức và thực hành quy trình làm giấy, từ những bước đầu tiên cho tới khi hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Người xưa làm giấy để vẽ tranh, viết thư pháp, còn tôi lần đầu làm giấy Dó để viết Calligraphy và vẽ màu nước. Nếu ngày nhỏ tôi đứng nhìn ông làm, chạy loanh quanh giúp việc vặt thì giờ tôi tự làm, ông sẽ ở bên cạnh góp ý, trợ giúp. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ lại tuổi thơ êm đềm và đẹp đẽ đã trải qua bên cạnh ông bà. Tờ giấy đầu tiên ra đời, tôi cầm nó trên tay, ngửi mùi hương, nhìn kỹ những vân giấy và nhận ra: Tờ giấy mỏng manh thành hình sau bao ngày tháng nhờ bàn tay khéo khéo của người thợ vừa dai, bền, mỏng nhưng không nhòe mực khi viết, vẽ. Nếu được lưu giữ đúng cách, giấy sau hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên như mới.”
“Khi tờ giấy ra khỏi xưởng là nó đã bắt đầu một cuộc đời mới. Tôi không biết trước được khách hàng sẽ dùng nó ra sao. Giấy sẽ được vẽ, viết, in ấn, làm sổ, trang trí, làm phông nền chụp ảnh… tùy thuộc vào sáng tạo của mỗi người, tôi rất mong chờ được ngắm nhìn những tác phẩm ấy. Giấy Dó có vẻ ngoài bình dị, nó không hề bắt mắt từ cái nhìn đầu tiên nhưng nếu chú tâm ngắm nghía và tìm hiểu, ta sẽ nhận ra những điều đáng quý ở nó: sắc nâu vàng lấp lánh dưới ánh sáng, sợi tơ mỏng mảnh mà trường tồn với thời gian… Ngắm nhìn giấy Dó, tôi còn thấy được cả cuộc đời những người dân quê mình. Khi còn nhỏ, họ tập viết, tập vẽ trên những tờ giấy Dó. Lớn lên, họ dùng giấy Dó để viết thư, ghi chép gia phả. Cuối đời, họ mang giấy Dó theo cùng mình trên hành trình mới. Các cụ già trong làng thỉnh thoảng gặp vẫn hỏi xin tôi mấy tờ giấy Dó để dành đưa vào áo quan khi họ rời xa cõi tạm.”
Thông tin giới thiệu và chú thích được đóng góp bởi người làm giấy Dó: Ngô Thu Huyền. Hình ảnh minh họa bằng màu nước vẽ trên giấy Dó Ngô Đức được thực hiện bởi hoạ sĩ: Nguyễn Cẩm Anh.
Toàn bộ thông tin được đăng tải trong Bộ sưu tập số Di sản Kết nối là do cộng đồng đóng góp và chỉ mang tính chất tham khảo. Chương trình không chịu trách nhiệm đối với mọi khác biệt so với thông tin được nêu trong Bộ sưu tập số cũng như miễn trách đối với mọi trách nhiệm pháp lý nảy sinh từ việc sử dụng thông tin từ Bộ sưu tập này. Tham khảo thêm tại Quy định cộng đồng.